Dưa môn được làm từ cây môn ngọt ở cạnh bờ sông, bờ suối. Môn màu xanh um, tàu vươn dài cả mét, đặc biệt là không ngứa. Người làm dưa môn chỉ cần một cái liềm và một sợi dây, đi về mé sông, mé suối lia cái liềm vào bụi môn rồi gom đem lên bờ cột cây bó lại đem về.

Cây môn ngọt trước khi thành dưa muối phải qua một nắng phơi cho heo héo. Sau đó người làm dưa sẽ mang rửa lại cho sạch cát bụi rồi cắt tàu môn ra từng khúc, mỗi khúc khoảng 10-12cm và cho vào lu (khạp) da bò. Nước cơm vo, muối một ít và nước. Đan một vỉ nan trúc gài trên mớ dưa môn ấy rồi dằn lại bằng mấy cục đá để 3 ngày sau là chua.

Người mua dưa môn đem về xả nước cho bớt chua, xé ra từng sợi nhỏ bằng đầu đũa ăn rồi vắt ráo lần nữa. Bắc chảo dầu lên bếp, khử chút tỏi, cho dưa môn vào xào, thêm tí bột nêm, đường là có món ăn chua chua mặn mặn béo béo rất ngon miệng.

Ngày xưa, nhà tôi có một thời gian dài sống bằng những khạp dưa môn ấy. Cha tôi đảm nhiệm việc đi cắt cây môn. Mỗi chiều, đi làm thợ hồ về, cha lại cùng chiếc xe đạp sườn ngang và cái liềm đi ra ruộng khu vực trảng Ông Tên hoặc bờ suối Giải Khổ Kiều mà cắt tàu môn ngọt.

Trời chạng vạng cha mới về tới nhà. Mẹ đem môn xuống, những bó môn xanh um nặng trĩu dài hơn cả mét. Rồi mẹ bưng vào góc sân cất đi để sáng mai đem ra phơi nắng. Những đôi chân trần tuổi lên 10 của chị em tôi sẽ chạy đùa quanh sân phơi môn, có khi cầm mấy tàu môn dài mà làm ngựa phi chơi trò đuổi bắt đến mệt lả.

Chiều nắng nhạt, chúng tôi cùng mẹ gom môn vào và đem rửa. Cái chảo nấu đường to bằng hai vòng tay người lớn của lò đường thủ công nào đó thải ra, cha đã mua về làm thau rửa môn. Bao nhiêu tàu môn cứ nhúng vào chảo nước rồi vớt ra cắt khúc để ráo.

Một khạp dưa môn làm xong sau đó, những bàn tay bé nhỏ lại cùng mẹ khuấy nước muối đổ vào khạp. Tôi là chị lớn nhất, biết đan nan bồ nên đan luôn một cái vỉ để dằn môn. Nếu không dằn lại, nó sẽ nổi phình lên và rã ra chứ không ngấm chua.

Sau ba ngày dằn trong khạp, những tàu môn xanh mướt hôm nào sẽ biến thành những khúc dưa môn màu nâu có vị chua. Phải dùng thau nhựa đựng dưa môn, nếu dùng thau nhôm thì vị chua sẽ làm hư thau.

Để có dưa quanh năm, cứ cách một ngày là cha tôi phải đi cắt tàu môn về. Dưa muối theo kiểu “gối đầu”, cứ hai ngày một khạp, thì mới bảo đảm lượng dưa đủ bán hằng ngày. Mỗi ngày bán chừng 10kg dưa môn thôi, mẹ có tiền mua ba ký gạo. Món quê dân dã vậy mà đã góp phần nuôi chị em tôi khôn lớn.

Bây giờ cây môn ngọt đã khan hiếm. Cuộc sống khá giả hơn nên người ta không thèm món dưa môn “nhà quê” ấy nữa. Chiếc khạp da bò cũng ít dần đi trong mỗi gia đình, giờ nếu muốn gài một hũ dưa môn chỉ dùng xô nhựa nhỏ. Người trẻ tuổi bây giờ cũng ít biết làm món dưa môn. Vậy nên, dưa môn bây giờ trong tôi chỉ còn là nỗi nhớ khôn cùng.